You are currently browsing the daily archive for 08/04/2009.
HOÀNG VŨ
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước có kết luận, Vinaland chính thức thông báo ngừng phát hành “Chứng chỉ quỹ tiết kiệm nhà ở”.
Ngày 30/3, Công ty Cổ phần Đầu tư Bất động sản Viên Nam (Vinaland) chính thức có thông cáo về việc ngừng phát hành chứng chỉ quỹ tiết kiệm nhà ở mà công ty này triển khai để huy động vốn cho dự án căn hộ tại quận 7, Tp.HCM, và một số thông tin liên quan.
Một phát kiến quá mới
Trước đó, kế hoạch phát hành của Vinaland đã thu hút sự chú ý của thị trường, do lần đầu tiên có loại “chứng chỉ quỹ tiết kiệm nhà ở”, do một công ty bất động sản tự phát hành để huy động vốn. Với nhiều người dân, sự chú ý đó còn có ở tính hấp dẫn mà mô hình công ty này đưa ra.
Cụ thể, bằng chứng chỉ quỹ tiết kiệm nhà ở, người dân chưa đủ khả năng tài chính hiện tại có nhu cầu có thể sở hữu một căn hộ cao cấp thông qua hình thức gửi góp mỗi tháng. Về mục đích, đây là một sản phẩm cần cho nhiều người dân, là một giải pháp huy động vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, về cơ sở pháp lý, loại chứng chỉ này còn có nhiều ý kiến khác nhau…
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) mới đây đã thực hiện một công trình nghiên cứu tổng kết những bài học đầu tiên được rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và kêu gọi các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới hãy đổi mới tư duy về biện pháp khống chế rủi ro hệ thống toàn cầu.
Công trình nghiên cứu này viết rằng hãy điểm qua những lời cảnh báo trong cuộc khủng hoảng này, điều hữu ích là đặt ra câu hỏi vì sao các nhà hoạch định chính sách không lưu ý đến tình trạng bùng phát mối đe doạ. Nếu có một chủ đề cơ bản được rút ra từ các bài học ở đây, thì đó là khả năng bất lực không nắm bắt được những diễn biến xảy ra rải rác đó đây.
Công trình nghiên cứu này của IMF sẽ được đưa vào chương trình nghị sự của cuộc họp của nhóm G-20 bao gồm các nền kinh tế hàng đầu của thế giới để ban hành một tài liệu nhằm cải cách lại phương pháp điều tiết các thị trường tài chính và làm cho các tổ chức tài chính quốc tế như IMF và WB hoạt động có hiệu quả hơn. Các nhà lãnh đạo Nhóm G-20 sẽ nhóm họp tại London vào ngày 2/4/2009. Khi thảo luận về công trình nghiên cứu này, Ban giám đốc điều hành của IMF đã nhấn mạnh rằng yêu cầu cần phải thực hiện các hành động sửa sai trên diện rộng và ở nhiều cấp khác nhau thể hiện một chương trình nghị sự đầy tham vọng đối với các nhà hoạch định chính sách và nhu cầu cần phải phối hợp hành động.
Tại sao cuộc khủng hoảng lại xảy ra?
THUỶ TRANG
Xu hướng lên giá của đồng EUR trong tháng 3
Trong tháng 3, đồng EUR đã tăng 7,8% so với USD, 4.7% so với GBP và 3.1% so với CHF (france Thụy Sĩ).
Lý giải cho sự lên giá của đồng EUR, các chuyên gia kinh tế đều nhận định một nguyên nhân quan trọng chính là do việc trong thời gian vừa qua ngân hàng TW các như nước Mỹ (FED), Anh (BOE), hay Thuỵ Sỹ (SNB) đã có những động thái mạnh mẽ và quyết liệt để tăng cung tiền trong lưu thông nhằm khuyến khích cho vay, kích thích nền kinh tế như tung ra hàng loạt kế hoạch về các gói kích cầu hay các chương trình mua trái phiếu.
Nếu nhìn vào nỗ lực của ngân hàng trung ương các nước, thì những kế hoạch hành động của ECB cho đến thời điểm này là tương đối khiêm tốn. Ngân hàng Trung ương Anh đã đưa ra kế hoạch mua vào lượng trái phiếu chính phủ trị giá 2 tỷ Bảng, tương đương 2,8 tỷ USD. FED công bố kế hoạch mua vào 300 tỷ USD trái phiếu dài hạn trong vòng 6 tháng tới. NHTW Thuỵ Sỹ cũng đã có động thái can thiệp thị trường ngoại hối bằng cách mua vào các trái phiếu công ty và cắt giảm lãi suất cơ bản xuống 0.25% từ mức 0.5% nhằm giảm lãi suất dài hạn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu so sánh với gói kích thích kéo dài hai năm của Mỹ trị giá lên đến 787 tỷ USD tương đương với 6% GDP hàng năm của nước này thì gói kích thích kinh tế bình quân của khu vực sử dụng đồng EUR chỉ tương đương 1-1,5%GDP.
Tuy nhiên, dưới con mắt đánh giá của giới đầu tư, sự bơm tiền ồ ạt vào lưu thông (quantitative easing) sớm muộn cũng sẽ gây ra lạm phát. Mối lo về nguy cơ lạm phát cùng với sự hoài nghi về hiệu quả của các chính sách kích thích mà chính phủ các nước như Mỹ, Anh đã áp dụng khiến đồng EUR được lựa chọn là kênh đầu tư tiềm năng, hỗ trợ cho sự lên giá của đồng tiền này trong thời gian vừa qua.
XT – VP NHNN
Ngày 17/6/2008 tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo “Tự do hóa giao dịch vốn và sự ổn định khu vực tài chính Việt Nam” do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Công thương Việt Nam tổ chức. Hội thảo đã tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Cơ sở lý luận về tự do hóa giao dịch vốn
Một cách đơn giản, giao dịch vốn (GDV) là những giao dịch liên quan đến chuyển vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, tự do hóa GDV là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối với những giao dịch này. Đối với người dân, tự do hóa GDV cho phép họ thực hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hữu những công ty khác, các dòng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao. Lợi ích của tự do hóa GDV là:
– Hình thành sự bình đẳng trong hoạt động đầu tư tài chính, các luồng vốn luân chuyển linh hoạt và hiệu quả, tạo điều kiện tiếp cận các luồng vốn quốc tế tăng vốn đầu tư trong nước, chuyển giao công nghệ và phát riển thị trường tài chính;
– Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn trong và ngoài nước với chi phí thấp, nâng cao tính tự chủ của nhà đầu tư và khả năng phản ứng của thị trường, góp phần hoàn thiện thể chế;
– Việc mở cửa thị trường tín dụng làm tăng tính linh hoạt của các doanh nghiệp trước những biến động về hàng hóa và lợi nhuận.