Ths. Nguyễn Thị Kim Liên

Từ giữa năm 2007 đến nay chỉ số giá tiêu dùng đột ngột tăng cao và tăng liên tục ngoài mong đợi. Bức tranh toàn cảnh nền kinh tế VN khiến các nhà làm chính sách rất nhiều khó khăn trong việc tìm ra hướng đi thích hợp để kiềm chế lạm phát.

Từ cuối năm 2006 đến giữa đầu năm 2007, nền kinh tế VN nổi lên với nhiều sự kiện, chỉ tiêu đầy hứa hẹn. VN chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Tốc độ tăng trưởng GDP đứng thứ hai châu lục. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều từ 20 đến 25%. Dòng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối liên tục tăng lên đạt các kỷ lục mới. Chỉ số chứng khoán VN-Index tăng lên gấp 4 lần. Tuy nhiên, đến giữa năm 2007, thông kê chỉ số giá tiêu dùng đã lên tiếng báo hiệu một điều không tốt lành cho nền kinh tế: chỉ số CPI đã tăng quá cao. Cuối năm 2007, con số lạm phát được công bố là 12,6% – cao nhất trong vòng 12 năm qua. Đầu năm 2008, chỉ số này tiếp tục tăng mạnh, riêng 3 tháng đầu năm chỉ số CPI đã tăng lên đến 9,19%, đã vượt mức chỉ tiêu lạm phát trong năm 2008 (8,5%) do Chính phủ đề ra.

Kiểm soát lạm phát hiện nay là một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu của Chính phủ. Theo tác giả, ngoài các nguyên nhân như: thiên tai, đầu tư không hiệu quả, giá yếu tố sản xuất tăng,… còn có nguyên nhân quan trọng tác động đến lạm phát hiện nay đó là VN còn bất cập trong các chính sách đối ứng với cú sốc bên ngoài, trong đó có chính sách tỷ giá. Định hướng chính sách tỷ giá không phù hợp so với biến động của kinh tế thế giới dẫn đến kết quả là: lượng cung tiền tăng đột biến; chi phí cho sản xuất trong nước tăng cao. Đây là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát cao tại VN.

1. Lý luận về chính sách tỷ giá

Tỷ giá hối đoái (gọi tắt là tỷ giá) là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của hai nước; hay nói cách khác là giá của một đồng tiền này tính bằng một đồng tiền (quốc gia) khác. Tỷ giá có thể được xác định bởi thị trường trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, được gọi là tỷ giá thị trường. Tỷ giá cũng có thể được xác định bởi các cơ quan hữu trách trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ở nhiều nước, trong đó có VN, cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách cùng tham gia quy định tỷ giá.

Trong chính sách tỷ giá cố định, sau khi được quy định, tỷ giá không thay đổi trong một thời gian tương đối dài. Nếu tỷ giá thấp, nghĩa là đồng nội tệ được định giá quá cao, ảnh hưởng đến xuất khẩu, có thể dẫn đến tình trạng đất nước bị thâm hụt cán cân thanh toán. Lúc đó Chính phủ có thể phá giá đồng tiền, cố định mức độ tỷ giá hối đoái ở mức thấp hơn làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn và hàng xuất khẩu rẻ hơn. Ngược lại, nếu đồng tiền trong nước bị định giá quá thấp, xuất khẩu có lợi sẽ đạt thặng dư cán cân thanh toán, nhà nước có thể tăng giá đồng nội tệ, cố định tỷ giá ở mức mới cao hơn, làm cho nhập khẩu rẻ hơn. Trong chính sách tỷ giá thả nổi, tỷ giá tự do biến động hàng ngày, nó xuống giá hoặc lên giá cùng với những biến động của thị trường, góp phần làm cho cán cân thanh toán liên tục ở trạng thái cân bằng.

Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc tế. Chính vì vậy, tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều tiết chính sách khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước.

2. Chính sách tỷ giá ở VN trong thời gian qua: tỷ giá linh hoạt với biên độ dao động nhỏ

Từ năm 2000, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của VN điều chỉnh từ chỗ công bố tỷ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với từng khoảng thời gian có hiệu lực tương đối dài, sang cơ chế công bố tỷ giá theo động thái hàng ngày của thị trường ngoại tệ. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện tốt chính sách điều hành tỷ giá theo định hướng của Chính phủ: vừa theo thị trường, vừa có can thiệp khi cần thiết. Việc điều chỉnh này đã tác động rất tích cực đối với thị trường tiền tệ. Tỷ giá giữa các ngoại tệ với VND đã được duy trì tương đối ổn định trong nhiều năm, theo 3 chế độ chủ yếu là:

  • Chế độ tỷ giá cố định trước khủng hoảng tài chính châu á
  • Chế độ tỷ giá cố định với biên độ dao động giai đoạn 1997-1999
  • Chế độ tỷ giá linh hoạt từ sau năm 1999.

Tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ ở VN đã có tính thị trường, nhưng còn hạn chế. Từ 1996 đến 2006, VND đã được điều chỉnh theo hướng hạ giá VND liên tục. Tuy nhiên, VND vẫn có những biểu hiện được đánh giá cao hơn thực tế. Đầu năm 2007 cho đến nay, VND có xu hướng lên giá liên tục do 2 nguyên nhân chính: nguồn cung ngoại tệ từ nước ngoài vào VN tăng mạnh và ứ đọng tại các NHTM; trên thế giới, đồng USD liên tục xuống giá kéo dài. Đến hết quý I năm 2008, tỷ giá VND/USD tiếp tục có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, mức giảm của tỷ giá hay sự lên giá của tiền đồng VN vẫn chưa đủ lớn để giúp nền kinh tế kiềm chế lạm phát. Hiện nay, VN theo đuổi chính sách tỷ giá linh hoạt, với biên độ dao động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường bên ngoài.

Bảng 1: Biên độ dao động của tỷ giá trong thời gian qua

Năm

Mở rộng biên độ

Biên độ mới

01/07/2002

0,15%

±0,25%

31/12/2006

0,25%

±0,50%

24/12/2007

0,25%

±0,75%

07/03/2008

0,25%

±1,00%

(Nguồn: Tổng hợp từ Internet)

Chính sách tỷ giá hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh tế. Nếu mở rộng biên độ dao động, làm cho tỷ giá linh hoạt hơn, đồng thời mở rộng các thành phần tham gia vào việc xác định tỷ giá, thì tính thị trường của tỷ giá sẽ cao hơn sẽ góp phần gia tăng hiệu quả kiềm chế lạm phát trong tình hình hiện nay.

3. Cơ sở của chính sách tỷ giá linh hoạt và tăng giá VND

Ở các nước châu á có cùng chung chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu như VN, đồng USD liên tục giảm giá. Đồng tiền của các nước châu á tăng giá so với đồng USD khiến cho các mặt hàng xuất khẩu của các nước này trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng ở Mỹ. Đồng Peso của Philippines cũng đã tăng lên mức cao nhất trong 7 năm qua so với đồng USD. Đồng đôla Singapore tăng cao nhất kể từ 10 năm nay. Còn đồng Rupiah của Indonesia, đồng Won của Hàn Quốc, đồng đôla Đài Loan đều tăng mạnh so với đồng USD. Đồng NDT đã lập mức cao kỷ lục và tăng tổng cộng trên 4%. Đáng lo nhất là ở Ấn Độ và Thái Lan, đồng nội tệ tăng giá sẽ tạo lợi thế rõ rệt cho hàng hóa của Trung Quốc so với hàng hóa của hai nước này trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, kể từ năm 2006 đến nay, giá của đồng Baht đã tăng 20%. Đồng Rupee (Ấn Độ) đã tăng 12% so với đồng USD trong năm.

Vì lẽ đó, VN không quá lo ngại đối với vấn đề VND lên giá sẽ làm cho giá cả hàng hóa xuất khẩu đắt hơn. Thứ nhất, đa số các đồng tiền trong khu vực đều tăng giá so với đồng USD. Bên cạnh đó, sự sụt giảm lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ có thể bù lại bằng việc xuất khẩu sang châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh. Mặt khác, các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu ở VN cũng được hưởng lợi từ việc đồng nội tệ tăng giá vì điều này sẽ giúp họ mua dầu mỏ, yếu tố đầu vào rẻ hơn.

4. Tăng cường linh hoạt tỷ giá và tăng giá VND ở thời điểm hiện nay

  • Tỷ giá linh hoạt giúp hạn chế tăng cung tiền, tác nhân gây lạm phát trong thời gian qua

Khi VN gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, VN Đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, NHNN VN phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu, tuy nhiên, mặt trái của chính sách này là do phải tung VND ra mua khối lượng ngoại tệ lớn, lượng cung tiền của VN từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng đối với lạm phát trong thời gian qua. Nếu linh hoạt tỷ giá, khi tỷ giá thị trường thích hợp, Nhà nước sẽ quyết định mua USD và sẽ được lợi khi bỏ ra số lượng VND ít hơn để mua USD rẻ bổ sung vào quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.

  • Tỷ giá linh hoạt giúp VND theo kịp phản ứng của thị trường khi USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu

Vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ, đồng USD của Mỹ đã mất giá đáng kể so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Chỉ tính từ năm 2006 đến nay đồng USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác như Euro, Yên Nhật, Bảng Anh, và đồng Nhân dân tệ Trung Quốc. Tuy nhiên, ở VN, tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp phần gây nên “lạm phát chi phí đẩy” vào VN. Sản xuất tại VN hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD trên thế giới hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VND là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Việc VND mất giá so với các ngoại tệ làm tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn. Nếu tỷ giá linh hoạt hơn, nếu VND mạnh hơn sẽ phản ánh đúng hướng biến động của thị trường thế giới.

  • Chính sách tỷ giá linh hoạt, tăng giá VND: Giúp hạn chế và sàng lọc nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả nguồn vốn vào

VN hiện nay có một số triệu chứng như Thái Lan tiền khủng hoảng 1997 như: yếu kém về hệ thống tài chính, bong bóng bất động sản, tỷ giá neo,… . Tuy nhiên, yếu tố châm ngòi cho khủng hoảng tại Thái Lan năm 1997 là ngược lại so với hiện tại ở VN. Lúc đó, kinh tế Mỹ mới phục hồi, lãi suất USD được nâng để chống lạm phát, đồng USD lên giá trên toàn thế giới. Do Thái Lan cố định đồng Baht so với đồng USD, nên đồng Baht lên giá toàn diện so với các ngoại tệ khác. Thái Lan không linh hoạt thay đổi tỷ giá dẫn đến thâm hụt thương mại,…. Khi Thái Lan tuyên bố thả nổi tỷ giá, lập tức đồng Baht bị mất giá gần 50%, các nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng đồng Baht hoảng loạn, rút vốn ra khỏi Thái lan khiến cho đồng Baht càng mất giá trầm trọng và khủng hoảng kinh tế xảy ra. Còn ở VN hiện nay thì ngược lại, VND bị neo cứng nhắc với đồng USD đang mất giá toàn diện trên thế giới là một trong những nguyên nhân chính gây ra nhập khẩu chi phí đầu vào cao. Nếu linh hoạt tỷ giá thì VND sẽ lên giá vừa chống lạm phát vừa có nhiều tác dụng tích cực khác. Những nhà đầu tư nước ngoài đang giữ vốn bằng VND lên giá sẽ không có ý định rút vốn ra khỏi VN. Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế VN chưa hấp thu hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài, nếu VND lên giá sẽ có thể giảm lượng ngoại tệ chảy vào VN. Nó có tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được những nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn. Tất nhiên về dài hạn, VN sẽ có chính sách phù hợp để có thể thu hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần là lạm phát trong tầm kiểm soát.

  • Chính sách tỷ giá linh hoạt tạo cơ hội phát triển thị trường sản phẩm phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro khi giao dịch thanh toán quốc tế và đầu tư nước ngoài

Hiện nay, trên thế giới đang giao dịch rất nhiều loại sản phẩm phái sinh như: Option, Forward, Swap, Future. VN cần phát triển và nâng cao chất lượng của các nghiệp vụ kinh doanh và bảo hiểm tỉ giá, đặc biệt là nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ (Swap). Tuy nhiên, do VN duy trì chính sách neo tỷ giá khá lâu đã khiến thị trường các nghiệp vụ phái sinh không có cơ hội để phát triển. Hậu quả là doanh nghiệp đã không được sử dụng những sản phẩm có thể bảo hiểm rủi ro trong các hợp đồng làm ăn, trong đó có rủi ro về tỷ giá. Trong điều kiện đồng tiền VN chưa được tự do chuyển đổi trên thị trường, nếu cầu lớn hơn cung thì giá sẽ vượt trần, còn nếu cung lớn hơn cầu thì giá đó nằm dưới giá sàn của NHNN qui định. Từ đó, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng mua bán USD ở bên ngoài để thanh toán dù biết đó là một hành động vi phạm pháp luật. Vì thế, Nhà nuớc cần thực thi chính sách tỷ giá linh hoạt, cho phép các nhà đầu tư có cơ hội vận dụng những công cụ phòng ngừa rủi ro ngoại hối, giảm thiểu tác động tiêu cực do biến động của tỷ giá hối đoái, thúc đẩy mở rộng đầu tư nước ngoài.

Lời kết

Thực tế, việc tăng giá đồng nội tệ không trực tiếp gây ra rối loạn thị trường tiền tệ mà chủ yếu do cách vận dụng các chính sách của quốc gia như: cố định tỷ giá, đầu tư sai không hiệu quả, chậm tiến hành cải cách cơ cấu,… Hiện nay các nước phát triển đã thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, trên 55% các quốc gia đang phát triển cũng đã đi theo hướng này. Dĩ nhiên, các quốc gia cần phải đạt những điều kiện nhất định mới có thể tự do hoá tỷ giá và tăng giá đồng nội tệ. Việc tăng giá đồng nội tệ cần cân nhắc tác động của nó:

  • Tăng giá nội tệ có thể làm tăng nhập siêu, đặc biệt là nhập những hàng hoá xa xỉ, không phải là đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống.
  • Tăng giá nội tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi canh tranh về tỷ giá trên trường quốc tế, có thể mất thị phần.

Dù VN hiện đang nhập siêu, nhưng đa phần hàng hoá nhập về là các yếu tố sản xuất. Việc nhập khẩu giá rẻ sẽ giúp chi phí máy móc, nguyên vật liệu cho sản xuất rẻ, góp phần xoa dịu lạm phát. VN cũng có thể dùng các biện pháp hành chính để can thiệp vào danh mục hàng hoá nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay để tránh nhập những hàng hoá tiêu dùng xa xỉ, không thiết yếu. Việc tăng giá VND hiện nay, theo tôi, là hợp xu thế chung của thế giới, khi mà USD ngày càng mất giá, sẽ không ảnh hưởng lớn đến thị phần xuất khẩu ở VN. Bên cạnh đó, dù linh hoạt chính sách tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế. VN cần thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái. Mặt khác, khi tỷ giá hối đoái giảm, các ngân hàng cần mở thêm dịch vụ mua vàng trực tiếp bằng USD đối với các nhà đầu tư trong nước, tạo điều kiện thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm bớt nhu cầu VND. Điều này sẽ làm giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế.

Trong thời điểm lạm phát cao như hiện nay, theo tôi, nên có biện pháp kiểm soát chặt hơn và hạn chế nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt là của các quỹ đầu tư rủi ro. Trong điều kiện nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả đồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thì nên đặt ưu tiên số một là khôi phục ổn định vĩ mô của nền kinh tế, đảm bảo cho sự tăng trưởng dài hạn.

Tài liệu tham khảo

PGS.TS. Trần Ngọc Thơ (chủ biên), Tài chính Quốc tế, NXB Thống kê, năm 2005, TP.HCM. [trang 15 -87], [trang 245-299]

TS. Phan Thị Bích Nguyệt, Kiểm soát an ninh tài chính nhằm giảm thiểu rủi ro quốc gia trong tiến trình hội nhập kinh tế của VN, TP.HCM, 2006, [trang 21-49]

Các báo/tạp chí:

Thời báo Kinh tế VN (2006)

Tạp chí Phát triển Kinh tế (2006, 2007)

Nghiên cứu tài chính Kinh tế

Thông tin tài chính

4. Các website chính

www.tuoitre.com.vn

www.saga.vn

và một số tài liệu, trang web khác

NGUỒN: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, số 218, 2008